Aller au contenu. | Aller à la navigation

Outils personnels

This is SunRain Plone Theme

Navigation

Vous êtes ici : Accueil / Actualités / Con đường hướng về đất nước ...

Con đường hướng về đất nước ...

Con đường hướng về đất nước của người Việt Nam tại Lyon và vùng lân cận

                                                      Lâm Thành Mỹ

__________________

Những thành phần của cộng đồng :

Thành phố Lyon năm 1928 không có nhiều sinh viên Việt Nam nhưng có một sinh viên đã thành công xuất sắc. Đó là Phạm Văn Bạch sinh năm 1910 tại Trà Vinh, đậu Tú Tài năm 18 tuổi, rồi được gia đình cho đi du học tại Lyon. Năm 22 tuổi, ông đậu Cử nhân Luật và năm 1936 đậu Tiến sĩ Luật ở tuổi 26. Sau đó , ông về nước hành nghề. Năm 1945, ông là Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam Bộ. Tập kết ra Bắc, ông giử chức Chánh Án Tòa án nhân dân tối cao (1989-80).

Kế tiếp ông ở Lyon, trong những năm 40 nóng bỏng, một nhóm trí thức đã tích cực hướng về đất nước, gồm kỹ sư Nguyễn Trọng Đắc, kỹ sư Nguyễn Tất Lang, nha sĩ Nguyễn Minh (sinh năm 1910 ở Bến Tre, mất năm 1982 ở Lyon) và nhiều bác sĩ, kỹ sư khác, thường gặp nhau ở nhà ông Nguyễn Minh. Ông Nguyễn Trọng Đắc là một trong 32 ủy viên của Việt kiều Liên Minh(1). Ông Nguyễn Tất Lang, làm việc ở xưởng vũ khí, về nước phục vụ sau 1945, để lại vợ con ở Lyon. Trường hợp này, ít người được biết. Trong nhóm còn có ông Nguyễn Khắc Scheou, người Việt Nam có bằng kiến trúc sư  đầu tiên ở Pháp, đệ tử của Tony Garnier.

Sau năm 1947, có một số sinh viên đến Lyon học trong các trường về Hóa, Kinh tế, Thú y, Y khoa, Nha khoa, tất cả đều trở về Việt Nam khi học xong.

Đa số người Việt lúc đó là thành phần công binh. Hầu hết sẽ là hội viên Liên Hiệp Việt Kiều. Theo thống kê của Chi Hội Rhône năm 1977, số hội viên  cựu công binh là 134. Các người này cư ngụ ở những nơi như sau : Lyon, các ngoại ô gần : Villeurbanne, Décines, Vaulx-en-Velin, Vénissieux, Pierre Bénite, Neuville, xa hơn : Villefranche-Jassans, Tarare và các tỉnh lân cận như Vienne, Pont L’Evêque (Isère), Miribel, Saint Maurice de Beynost (Ain). Một số đông thuộc hai đoàn 47 và 68 của công binh ; một số ít hơn thuộc đoàn 60. (đoàn : tiếng Pháp là compagnie, sang tiếng Việt có chỗ dịch là cơ đoàn hoặc đoàn, nếu dịch theo từ quân đội thì phải là đại đội, ở đây xin dùng tạm từ ‘đoàn’ thường được dùng ; một đoàn gồm khoảng 250 người, cùng quê với nhau). Năm 1942, đoàn 47  được đến đóng ở thị xã Villeurbanne, gần bên nhà máy TASE (Entreprise de Textiles Artificiels du Sud-Est) thuộc địa phận của thị xã Vaulx en Velin. Công binh trong đoàn đến để làm việc cho nhà máy, theo hợp đồng giữa sở M.O.I. quản lý công binh và TASE. (Năm 2014, thị xã Villeurbanne đã làm một buổi lễ và dựng một tấm bản kỷ niệm sự kiện này với sự hiện diện của ông Thiều Văn Mưu, người duy nhất thuộc đoàn 47 còn sống lúc đó(2) ). Đoàn 47 gồm những người quê ở Bắc Ninh và Phú Thọ. Khi nhà máy không đủ việc làm, người công binh được điều động đi làm nơi khác, như người trong đoàn 47 đã được điều động đi Izieux hay Neuville. Đồng thời, đoàn 68 được đưa về Décines, ở đấy có Société lyonnaise de soie artificielle (Xí nghiệp tơ nhân tạo), có người được điều động đến các nhà máy tơ sợi ở La Voulte, Roanne, Vienne, Tarare. Có một phần của đoàn 60 đóng ở Lyon, phần khác ở Tarare. Công binh ở các đoàn trên đều có quê ở miền Bắc. Những cựu công binh quê ở miền Trung (có mặt nhiều trong Chi Hội) có lẽ đến từ La Voulte, nơi đóng của những đoàn có nhiều người quê ở miền Trung (27, 29, 32)

Lần lần, công binh được học nghề, tìm được việc làm, tỷ như tháng giêng 1945, công ty sản xuất xe tải Berliet ở Vénissieux tuyển 70 thợ Việt Nam, có lẽ nhờ việc ông phó giám đốc kỹ thuật Bardin là bạn học của kỹ sư Nguyễn Trọng Đắc và giám đốc Monnier là người trong đảng Cộng sản (3).

Khi nghe tin Việt Nam độc lập, các trại công binh đều treo cờ đỏ sao vàng. Khi đoàn Bác Hồ sang Pháp, các đoàn cử đại diện đến phi trường Bourget đón chào Bác, trong vùng có hai đại biểu là Thiều Văn Mưu và Nguyễn Văn Hối (3). Tinh thần của công binh ủng hộ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa rất là mạnh mẽ.

Số lớn công binh hồi hương, một số người có nghề, lập gia đình, ở lại Pháp.

Trong khoảng 20 000 công binh ở toàn nước Pháp, số ở lại được ước lượng từ 1000 đến 3000. Trong vùng Lyon và lân cận gần, số người ở lại chắc khoảng 200. Những người này là nòng cốt  của phong trào chống chiến tranh của Pháp rồi của Mỹ ở Việt Nam.

Cuối những năm 1950, số người Việt ở Lyon, kể cả sinh viên, không quá vài trăm.

Trong những năm 1960, một số người Việt, trong đó có nhiều cựu thủy thủ, từ Marseille rủ nhau đến mở tiệm ăn ở Lyon và vùng xung quanh, con số vào khoảng 10 tiệm. Các thương gia này làm ăn khấm khá vì lúc ấy chưa có nhiều cạnh tranh.

Sinh viên đến Lyon để học các trường chuyên môn : Hóa, Y, Dược, Thú Y, Dệt, Thuộc da, Toán kinh tế, Thương Mại ; Lyon có trường kỹ sư đa khoa là Ecole Centrale Lyonnaise. Lyon cũng có Đại học công giáo, có đào tạo về khoa học, nhưng đặc điểm chắc là về thần học và chắc cũng có người Việt Nam theo học, nhưng ta không có thông tin về những người này. Năm 1957, một sự kiện làm thay đổi diện mạo đại học trong vùng, đó là sự thành lập Institut National des Sciences Appliquées de Lyon, INSA Lyon, Viện quốc gia khoa học ứng dụng-Lyon. Đây là một trường kỹ sư kiểu mới, có tham vọng là ‘trường lớn’ nhưng nhận sinh viên không qua thi tuyển sau các lớp dự bị mà nhận qua hồ sơ từ sau trung học phổ thông, trường đa khoa, nhận nhiều sinh viên, nhận thầy giảng dạy và nghiên cứu và có nhiều liên hệ với các xí nghiệp. Trường lần lần chứng tỏ sự thành công của mình, thu hút nhiều sinh viên trong đó có sinh viên Việt Nam, qua đó số sinh viên, rồi nghiên cứu sinh Việt Nam  ở Lyon tăng lên. Việc Trường Quốc gia Cao Đẳng Công chánh (Ecole Nationale Supérieure des Travaux Publics) dời về Vaulx en Velin, vùng Lyon,  cũng làm tăng số sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam trong vùng. Ngày nay, năm 2018, số sinh viên Việt Nam ở Lyon là khoảng 500, hoàn toàn khác hẳn với 60 năm trước.

Hoạt động :

Trở lại những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 60, phong trào hướng về đất nước vùng Lyon vẫn có hoạt động, Liên Hiệp Việt kiều vẫn có hội họp.

Tỷ như năm 1959, các cuộc họp được tổ chức ở một quán cà-phê đường Basse-Combalot, gần rạp Elysée, đường này song song và gần bên đường Basset, Lyon 7è, trong khu thương mại Á đông ngày nay. Liên Hiệp Việt kiều (viết tắt LHVK) được hoạt động công khai từ tháng 12/1955. Việc được chính thức hóa lúc ấy có thể do chính quyền Ngô Đình Diệm có thái độ bất hòa với Pháp. Hội LHVK sẽ bị Pháp cấm trong tháng 12/1959 (nhưng vẫn hoạt động ngấm ngầm) rồi được thành lập lại năm 1969. Chi hội Lyon do bác Lê Tùng (1918-2009) phụ trách, có các thành viên như các bác cựu công binh Nguyễn Ngọ, người Quảng Ngãi, Ngụy Ngọ (1915-2002), người Hà Nam, Lê Đình Diệm, người Bình Định (1915-2004), ông bà Đinh Duy Tường, ông bà Phạm Vũ, bác Phạm văn Tý và nhiều bác khác. Về sinh viên, có anh Nguyễn Công Hàn, Trịnh Văn Quỳ, Trịnh Văn Vỹ (anh Hàn và anh Quỳ học trường Ecole Française de Tannerie, anh Vỹ học Beaux-Arts). Anh Hàn hè 1956 là đoàn trưởng ở trại hè Orédon do LHVK tổ chức. Bác Lê Tùng là người năng động, nói tiếng Pháp trôi chảy, làm nghề đốc công, xúc tiến các công trình đường vành đai của Lyon, thường di chuyển quanh thành phố nên có dịp gặp gỡ, thăm hỏi bà con. Các bác Nguyễn Ngọ, Ngụy Ngọ… đã tham gia từ lâu các phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến trong nước.

Năm 1960, chiến sự nổ ra ở nước ta. Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được thành lập. Năm 1963, Diệm bị lật đổ và bị giết cùng em là Nhu. Chính trường Sài Gòn rối ben với các tướng lĩnh nối đuôi nhau thay đổi làm thủ tướng, tổng thống… Năm 1965, Mỹ đổ bộ ở Đà Nẵng, đánh trực chiến nhưng không giành được kết quả gì. Năm 1967, Mỹ leo thang, ném bom miền Bắc, tăng quân đến 550 000 người. Thế giới sôi sục biểu tình phản đối. Trong bối cảnh đó, Liên Hiệp Sinh viên Lyon  (phân hội) được thành lập để tập hợp sinh viên chống chiến tranh của Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào. Người trách nhiệm là anh Lâm Thành Mỹ. Phân hội có các buổi họp trao đổi về tình hình, đi dự mít tinh của bạn bè Pháp, viết báo, đồng thời lo tổ chức văn nghệ phục vụ các Lễ Tết, có khi các mít tinh. Trí thức, chuyên viên  lúc ấy có ông Nguyễn Minh Nháng, giáo sư triết học ở trường Trung học phổ thông ở Vienne, thường là người đọc diễn văn tiếng Pháp trong các lễ, các mít tinh ; các anh Phạm Văn Doản, kỹ sư điện, từ Paris đến làm việc ở Lyon, Phạm Quang Thọ, về sau là nghiên cứu sư CNRS (Centre National de la Recherche Scientifique), chuyên về Cộng Hưởng Từ Hạt Nhân (anh Thọ sẽ có nhiều đóng góp với trong nước trong chương trình Trung Tâm Phân tích và Thử nghiệm từ 1983 về sau), anh Nguyễn Huy Tiến, thiết kế đồ họa, trong nhiều năm sẽ là trưởng ban văn nghệ Lyon, có anh Trịnh Văn Vỹ, họa sĩ tài hoa, đặc biệt làm phối cảnh cho Lễ Tết. Đối tác Phật tử gần gũi với LHVK có anh chị Nguyễn Dư và Cúc, anh Dư là giảng viên ở trường kỹ sư Ecole Centrale de Lyon. Số trí thức không nhiều để có sinh hoạt riêng cho giới mình. Vào thời trước đó, số sinh viên Việt Nam ở Lyon cũng còn ít như đã trình bày ở trên, có lẽ vì Lyon còn giữ tai tiếng là “thành phố sương mù” nên sinh viên Việt Nam thích đến học ở Paris hoặc ở các thành phố miền Nam như Montpellier, Toulouse, Bordeaux hơn. Do có ít sinh viên Việt Nam, Lyon không có truyền thống của phong trào sinh viên ủng hộ kháng chiến trong nước. Khi có anh Nguyễn Công Hàn thì cũng có vài sinh hoạt, nhưng anh Hàn chỉ ở Lyon ít năm. Xây dựng phong trào sinh viên ở Lyon là xây dựng từ đầu. Vốn liếng quần chúng trước hết là con cái các bác cựu công binh như Paule và Marie Andrée, con bác Vương Vận, France và Claire, con bác Nguyễn Bá Khánh…. Năm đầu, có sự giúp đở của anh Nguyễn Văn Thông, kỹ sư ECAM (Ecole Catholique des Arts et Métiers) nhưng năm sau anh đã rời Lyon. Số sinh viên Việt Nam lần lần có thêm nhờ sự ra đời của trường INSA như đã trình bày.  Anh Lâm Thành Mỹ đang làm việc ở INSA, anh bắt đầu “công tác quần chúng” buổi trưa mang mâm ăn đi đến ăn cùng sinh viên Việt Nam. Lần lần, anh có được một lực lượng nòng cốt sinh viên nằm ở INSA. Hè 1968, anh được cử đi tham dự Liên hoan Thanh niên và Sinh viên quốc tế ở Sofia, Bulgarie (anh có mang về mấy bộ phim tài liệu như “Địa đạo Củ Chi” sẽ được chiếu cho kiều bào xem và hai lá cờ lớn được dùng trong các cuộc diễu hành cùng quần chúng Pháp, đặc biệt ngày 01/5/1975). Chị  Diệp Thị Xuân (vợ anh Mỹ) có vai trò quan trọng trong việc quan hệ thân thiện với sinh viên. Ở INSA, có Lê Thế Thành, sau này là kỹ sư tin học, có lúc có công ty ở Pháp và có mở công ty ở Việt Nam, Nguyễn Văn Đạt, sau là kỹ sư công chánh làm ở Moulins một thời gian rồi sang Canada, Tuấn (có biệt danh Tuấn gầy) sau này lên Paris rồi mất liên lạc, Dương Túy Sương, sau là kỹ sư tin học làm ở BNP Paris. Ba sinh viên Thành, Đạt, Tuấn có gia đình ở Cam-Pu-Chia, khi gia đình phải hồi hương về Việt Nam gấp rút vì chính phủ Cam-Pu-Chia đàn áp kiều dân Việt Nam thì LHVK Lyon có giúp phương tiện vật chất cho ba bạn trong một thời gian. INSA còn có một số sinh viên có học bổng của Việt Nam và Pháp, như Trịnh Văn Thân sau là tiến sĩ hóa dầu, về nước làm việc ở Petro Viet Nam, Bùi Đức Hào, Tiến sĩ Hóa, sau là trách nhiệm Chi hội Strasbourg và làm giám đốc nhiều công ty ở Pháp và Việt Nam, thường viết báo về văn học văn hóa; vào khoảng năm 1985 có Cao Thiện Phước, kỹ sư tin học, đã giữ chức Tổng Thư ký Chi hội trong nhiều năm. Ngoài sinh viên INSA, có Hưng (Nguyễn Văn?), trường Ecole Nationale Supérieure de Travaux Publics (Vaulx en Velin), Ngô Bảo Hùng, Trần Diệp Quang Trí, học Triết (mất sớm). Đặc biệt có Vũ Văn Huân, từ Paris xuống học nội trú Y khoa, bác sĩ chuyên về máu và ung thư, chủ tịch hiện tại của Chi hội. Còn nhiều người khác, không thể kể hết. Các buổi họp của sinh viên được diễn ra ở nhà anh Lâm Thành Mỹ.

Phân hội có ra tờ Thông Tin ngắn, quay ronéo, nội dung đưa tin ủng hộ kháng chiến chống Mỹ, tờ này nhằm gửi đến một số sinh viên Việt Nam tại Lyon. Mọi thành phần trong nhóm sinh viên được khuyến khích tham gia hợp xướng (Vũ Hồng Nam viết là “bị bắt buộc lên múa hát trên sân khấu”!). Phân hội cũng nhờ nhóm kịch ở INSA tham gia vào các chương trình văn nghệ, họ đọc thơ, diễn kịch rất hay (năm 1973, trong mít tinh chào mừng Hiệp định Paris, họ đã trình diễn bài Bình Ngô đại cáo dịch sang tiếng Pháp, đọc trôi chảy tên các tướng, các trận đánh…)

Sự kiện đáng ghi nhớ là buổi mít tinh lớn ở INSA năm 1971 do Công đoàn Giáo chức trường tổ chức. Giảng đường lớn (grand Amphi) có ngàn chỗ đầy ăm ắp sinh viên và các thầy. Lê Thế Thành, đại diện sinh viên Việt Nam đọc tham luận (của chị Xuân viết, bài này còn được lưu lại). Có cả nhiều sinh viên Mỹ dự. Sau mít tinh có cuộc trao đổi giữa sinh viên Việt Nam và Mỹ. Sinh viên Mỹ cho biết họ sẽ viết thư thông báo với gia đình ở Mỹ và gia đình họ có phản hồi rất tốt cho chị Xuân qua điện thoại.

Phong trào sinh viên ở Lyon lần lần lớn mạnh và được cho là một ‘lò’, từ đó nhiều người tiếp tục trong nhiều năm đóng góp cho cộng đồng Việt Nam tại Lyon và tại Pháp.

Chi hội LHVK Lyon cũng mạnh lên; năm 1972 tiếp đón Ông Bộ trưởng Xuân Thủy với cái Tết ở phòng Molière (là phòng diễn của Trường dạy Âm nhạc, Conservatoire) rất xôm tụ, với một chương trình văn nghệ địa phương có hạng; trách nhiệm văn nghệ là anh Nguyễn Huy Tiến, ngôi sao hát địa phương có chị Lộc Graber; ngôi sao múa có các chị Thu Hà, Mỹ Trang…Buổi chiêu đãi quan khách và quần chúng lúc nghỉ giải lao cũng rất tươm tất. Hôm sau, khi Bộ trưởng gặp gỡ, nói chuyện với Việt kiều và bạn bè Pháp thì ta phải tổ chức ở trụ sở của Liên đoàn Lao động C.G.T. chứ Hội đâu có trụ sở. Nơi này cũng là nơi hội họp của Ban Chấp hành LHVK Lyon, nơi tập dượt văn nghệ… Phải nói rằng lúc tiếp Ông Xuân Thủy (cũng như lúc tổ chức Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh), có hai Chi hội đồng trách nhiệm: Chi hội Lyon và Chi hội Décines do Ông Ngô Văn Chiếm đứng đầu. Ngoài hai chi hội, còn có một nhóm Việt kiều gồm một số cựu công binh đang làm công nhân trong xưởng xe tải Berliet ở Vénissieux (tiền thân của RVI, Renault Véhicules Industriels) tự lấy tên là nhóm Mỹ Lai, không thuộc LHVK, đóng góp giúp trong nước thì gửi qua Sứ quán. Đến 1973, sau Hiệp định Paris, ba tổ chức trên mới thống nhất lại với cái tên LHVK Chi hội Rhône. Đó là lý do tại sao có tên Chi hội Rhône. Khi hòa bình lập lại ở Việt Nam năm 1975 và sau một Đại hội bất thường, LHVK nhường chỗ cho Hội Người Việt Nam tại Pháp (HNVNTP), tập hợp rộng rãi hơn (như giới Phật tử chùa Trúc Lâm, Lực lượng 3…). Trong ban vận động ở địa phương để thành lập HNVNTP, có linh mục Nguyễn Kim Sơn. Trung ương Hội đề nghị anh Lâm Thành Mỹ thay thế bác Lê Tùng với lý do: thời kỳ mới là thời kỳ tái thiết đất nước, khoa học là then chốt, Hội cần sự tham gia mạnh mẽ của giới khoa học. Anh Lâm Thành Mỹ từ chối nhưng không được và trở thành Tổng Thư ký Chi hội. Sau này anh có mặt trong nhiều hoạt động khoa học kỹ thuật và trong một thời gian làm trách nhiệm cho toàn Hội ở Pháp trong việc đóng góp với đất nước. Các hoạt động này đều có được ghi lại trong các báo cáo, đặc biệt trong các Đại hội HNVNTP.

Lúc đó, thanh thế của Chi hội rất lớn. Nhiều Việt kiều đang ‘kẹt’ ở Pháp và cần liên lạc với gia đình trong nước nghĩ rằng Chi hội có thể giúp họ và họ ghi tên vào Hội; suy nghĩ này là đúng, Chi hội đã làm vai trò liên lạc; giấy giới thiệu của Chi hội cũng được giới thẩm quyền trong nước coi trọng. Chi hội lại có các tổ ở Roanne, ở Vienne, được sự tham gia của Việt kiều ở La Voulte (Ardèche) nhờ các hoạt động văn hóa như chiếu phim nhân các buổi lễ; nhiều bà con ở Clermont Ferrand, Annecy, Annemasse cũng ghi tên vào Chi hội cho nên cơ quan lãnh sự ở Sứ quán gọi Chi hội là Chi hội vùng Rhône (Nhưng vì tên Rhône không mấy người trong nước được biết, nên có khi  Chi hội phải ghép thêm vào thành Rhône-Lyon). Số hội viên lúc đó là trên 400. Ban Chấp hành, gồm khoảng 20 người, có đủ các thành phần : cựu công binh, thương gia, trí thức, sinh viên, phụ nữ.

Năm 1976, sau sự kiện tiếp đón chào mừng Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến Paris, Ban Chấp hành nghĩ đến việc thành lập Hội quán. Paris có Hội quán cũng như Marseille và Bordeaux. Đã đến lúc Chi hội Rhône chấm dứt việc ăn nhờ ở đậu: họp hành, tập dợt văn nghệ ở trụ sở CGT, cours Lafayette (hội họp sinh viên thì ở nhà anh chị Mỹ Xuân); tổ chức ăn uống đón các đoàn văn nghệ thì ở trụ sở hội ARAC (Asociation Républicaine des Anciens Combattants) đường Paul Bert. Vị trí nhắm đến nằm ở số 38 rue Sainte Geneviève, 69006 Lyon. Nơi này gồm hai căn liền nhau, một dùng làm xưởng thợ điện, một làm chỗ ở. Giá là 100 000 francs, cộng thêm chi phí giấy tờ thành 120 000 francs, nếu tính ra tiền euros thì bằng 18000 euros (giá trị tiền hồi đó cao hơn bây giờ). Được sự đồng ý của Ban Chấp hành, cuộc vận động các nhà hảo tâm được tiến hành ngay. Các chủ tiệm ăn Việt Nam ở Lyon đã nhiệt tình hưởng ứng.  Chỉ trong một buổi chiều là Chi hội có gần  đủ số tiền. Danh sách đóng góp bây giờ vẫn được treo ở Hội quán. Các bác công nhân, các trí thức, sinh viên đều có đóng góp. Sau khi mua xong thì phải sửa sang, nhập hai căn thành một cho rộng, làm gác lửng (mezzanine) để thêm không gian…Đấy là công của các bác công nhân, đặc biệt bác Lê Tùng. Hội quán được khánh thành năm 1977; anh Đào Văn Tường, giáo sư Đại học Bách Khoa Hà Nội, dạy Hóa Hữu cơ, lúc đó đang công tác ở Lyon và đang cư trú trên gác của Hội quán, được mời cắt băng (tượng trưng) để khánh thành. Lúc mua được Hội quán, Chi hội chưa có tư cách pháp nhân, như tất cả các hội đoàn nước ngoài tại Pháp.  Ba người được cử để đứng tên làm chủ là : bác Lê Tùng, đại diện giới công nhân, ông Đào Văn Phúc, đại diện giới thương gia và anh Lâm Thành Mỹ, đại diện trí thức, sinh viên. Phải chờ đến khi ông Mitterand và đảng xã hội lên cầm quyền thì các hội đoàn người nước ngoài mới được hoạt động theo qui chế của Luật 1901, có quyền và nghĩa vụ như hội đoàn nước sở tại. Chi hội được đăng ký với chính quyền, tên được ghi vào Công báo (Journal Officiel) và có tư cách pháp nhân. Người trách nhiệm trước pháp luật có chức danh Chủ tịch (Président). Do Chi hội có tính cách pháp nhân nên Ban Chấp hành và Đại hội hội viên chủ trương để Chi hội chính thức là chủ nhân của Hội quán. Quá trình thủ tục cũng lâu nhưng rồi cũng xong.

Các sinh hoạt ở Hội quán, ngoài hội họp, có bóng bàn, cờ tướng, belote. Mỗi tháng có bữa ăn, vào trưa thứ hai đầu tháng, do ông bà Thân Văn Uẩn trách nhiệm. Khi ông bà Uẩn hồi hương, bác Đào Văn Phúc, chủ tiệm ăn, xung phong làm bếp chính. Trong các Lễ Tết, để phục vụ đoàn văn nghệ từ Paris xuống biểu diễn, có bác Ngụy Ngọ, chị Xuân và một số người nữa. Chi hội cũng thường tổ chức chiếu phim ở rạp chiếu bóng Bellecombe gần Hội quán, nhân các buổi lễ như Quốc khánh…quần chúng xem hầu hết các phim có được ở Pháp thời đó: Chị Dậu, Rừng O Thắm, Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Giữa hai làn nước,…Quần chúng rất thích thú được xem phim, nhiều người từ xa đến xem, tỷ như từ La Voulte. Chi hội có tủ sách khoảng năm trăm đầu sách tiếng Việt do Thư viện tổng hợp của T.P.Hồ Chí Minh gửi tặng ; ngược lại, Chi hội bảo đảm cung cấp mực in cho máy photocopie của thư viện. Sách có đủ loại: tiểu thuyết, thơ, nhiều quyển nổi tiếng như Bóng nước Hồ Gươm, Hoàng Lê nhất thống chí… Chi hội tổ chức cho mượn sách. Có điều sách trong nước lúc ấy in trên giấy vàng, chữ khó đọc; sau đó bị mấy lần nước dột từ nhà trên xuống, làm hư hỏng. Sinh hoạt thể thao tập trung vào quần vợt, mỗi chủ nhật ra sân đông đảo. Sinh hoạt văn nghệ cũng thường được tổ chức, ở Lyon có nhiều danh ca, nhiều nhạc sĩ tài ba. Chi hội có tổ chức lớp học tiếng Việt cho trẻ em, nhưng không được thành công, số học sinh ít ỏi nên lớp không tồn tại được.

Chi hội cũng nghĩ đến nhà nghỉ hưu cho các bác nhưng kế hoạch này không thành, các bác không ủng hộ lắm. Trái lại, việc có khu mộ chung được hưởng ứng và Chi hội đã mua một phần đất ở Nghĩa trang Loyasse cho 50 năm (thời hạn tối đa, sau đó phải xin gia hạn).

Lễ Tết Nguyên Đán là sinh hoạt lớn nhất, được tổ chức long trọng mỗi năm, nhưng địa điểm thay đổi hằng năm để đi tìm chỗ tối ưu: phải có sân khấu cho văn nghệ và đồng thời phải có không gian ẩm thực. Cho đến sau này có được Centre Culturel et de la Vie Associative ở Villeurbanne là nơi lý tưởng với hai phòng: phòng ăn và nhà hát, Chi hội đã tổ chức Tết ở nhiều nơi: Salle Victor Hugo, Lyon 6è; Salle Molière Lyon 5è, Maison de la Danse ở Croix Rousse (bây giờ là nhà hát) Lyon 4è, một phòng thuộc tư nhân cho thuê ở Lyon 8è, Maison du Peuple ở Vénissieux, Centre Culturel Charlie Chaplin ở Vaulx en Velin, Centre Culturel Albert Camus ở Bron và cả Salle des Fêtes ở Collonges au Mont d’Or! Lễ Tết mọi năm đều được thành công nhưng sức lực chi ra là nhiều kể cả sự giúp đỡ của đoàn văn nghệ ở Paris hay trong nước.

Về đóng góp khoa học kỹ thuật với đất nước, sau đóng góp vào các đợt Máy cày, Điện gió, Ngàn người ngàn sách quý do Trung ương Hội đề xướng, Chi Hội được Trung ương giao hợp tác với tỉnh Nghĩa Bình (Quảng Ngãi và Bình Định, lúc đó hợp nhau thành một tỉnh). Trong năm 1983, theo đề nghị của tỉnh, Chi Hội đã gửi về một số thiết bị y tế gồm một máy đo điện tim (électrocardiogramme) và phụ tùng, nhiều thiết bị nhãn khoa và phụ tùng, tất cả trị giá 60 000 F (tính ra euros là 9000). Anh Tổng Thư ký sau đó có đến tận nơi gặp ông Chung Hường, Phó Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh ; tỉnh đề nghị Chi Hội giúp thành lập một nhà máy hóa lỏng khí CO2, nguyên liệu là khí bốc ra từ nhựa mía đường. Chi Hội có tham khảo giá ở Pháp, giá này lớn hơn khả năng của mình nên Chi Hội mời Hội Đồng hương Nghĩa Bình tham gia. Hội này triệu tập các kiều bào quê ở Nghĩa Bình, có quyên góp tiền và nhận trách nhiệm liên lạc với tỉnh. Cũng trong năm 1983, Khoa Hóa của Hiệp Hội Khoa Học Kỹ Thuật có sáng kiến (từ ý của anh Nguyễn Quí Đạo) mở Lớp Hè Phân Tích ở T.P. Hồ Chí Minh để tiến tới việc thành lập Trung Tâm Dịch Vụ Phân Tích và Thử Nghiệm. (Việc này được kể lại trong nhiều tài liệu của anh Nguyễn Quí Đạo và Lâm Thành Mỹ, xin độc giả tìm đọc) . Ở Lyon, có ba người tham gia Lớp Hè : Phạm Quang Thọ, Trần Minh Đức và Lâm Thành Mỹ. Chi Hội ủng hộ việc thành lập Trung Tâm và tặng một hotte (trị giá 22 000 F) để làm mẫu. Trên đà đó, anh Lâm Thành Mỹ đề ra ‘Lớp Hè về  Pôlyme và  Vật liệu Compôzít (1985), mở đầu cho Việc hợp tác giữa INSA và Trung Tâm Kỹ thật Chất Dẻo TP Hồ Chí Minh. Chi Hội ủng hộ chương trình này và ủng hộ Trung Tâm 3 Tổng Cục Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng Nhà Nước (một đối tác của Lớp Hè) một máy vi tính Apple II và máy in kèm theo. Vào thời điểm đó, máy này rất quý.Xin nhắc lại là lúc đó, Việt Nam bị phong tỏa bởi các đồng minh của Mỹ, trừ Pháp. Chương trình hợp tác vừa nói đã được kéo dài trong 10 năm với sự giúp đở tài chính của Vùng Rhône –Alpes.

Trong năm này (1985) cùng với Hội Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẳng, Chi Hội tặng Đại Học Đà Nẵng một máy vi tính Apple II và máy in kèm theo.

Năm 1987, phối hợp với Chi Hội Grenoble, Chi Hội tặng Liên Hiệp Xí Nghiệp Nhựa Thành Phố Hồ Chí Minh một máy rétroprojecteur

 Đoạn sau đây tóm tắt sinh hoạt của Chi Hội trong thời ấy :

Số hội viên đóng niên liễm năm 1987: 326 ; 40 % vào Hội trước 1975, 60% sau 1975 ; hội viên mới năm nào cũng có

-Thành phần theo tuổi : dưới 25 tuổi : 7 người ; từ 25 đến 35 tuổi : 45 ; từ 35 đến 50 tuổi : 68 ; từ 51 đến 60 tuổi :66, từ 61 đến 70 tuổi : 74, trên 70 tuổi : 46.

-Theo vùng : 2/3 tại Lyon và trong vùng ; 1/3 tại các tỉnh Rhône (ngoài vùng Lyon như Tarare), Isère (đặc biệt Vienne), Ain (Roanne, Bourg en Bresse),  Saône et Loire, Haute Loire, Savoie, Haute Savoie.

Hoạt động :

-Trong cộng đồng người Việt :

Thường trực ở Hội quán mỗi chiều thứ năm và thứ bảy ; sinh hoạt thể thao mỗi sáng chủ nhật ; sinh hoạt bữa ăn của các bác hưu trí mỗi tháng một lần ; tu bổ Hội quán ; mua một khu đất để làm nghĩa trang, tổ chức cho mượn sách, chiếu phim Việt Nam khi có phim mới (đã chiếu tất cả các phim Việt Nam đang có ở Pháp), tổ chức nhiều đêm văn nghệ, dạ vũ tại Hội quán, tham gia các buổi lễ của Chi hội Phật tử Lyon, Lễ Tết được sự ủng hộ, tham gia đông đảo của Việt kiều, gia quyến và bè bạn.

-Trong xã hội Pháp :

-Lễ Tết của Chi hội được truyền hình trong ba năm liền : 1985, 86, 87 ; được báo chí nói đến nhiều. Lễ Tết có lẽ đã thành một ‘sự kiện văn hóa’ trong vùng,

-Chi hội hàng năm tham gia “Lễ Báo Nhân đạo” trong vùng

-Làm bữa ăn hữu nghị có trình bày văn nghệ với ‘Comité d’Action sociale’ của Institut de Recherches sur la Catalyse ; tham gia nói chuyện, chiếu diapositives nhiều nơi, nhiều lần, ví dụ với Centre Culturel Feyzin, Secours Populaire Français…

-Với Hội chung và các Chi hội bạn :

-Tổ chức Đại Hội Thể Thao Văn Nghệ Xuân 85 ở INSA-Campus La Doua (khoảng 500 thanh niên trên toàn châu Âu đến dự)

-Tham gia tích cực Liên Hoan Xuân 86 ở Marseille và Printemps des Jeunes 87

-Mỗi năm tích cực tham gia ‘Hội Mùa Xuân’ do Chi Hội Provence-Camargue tổ chức tại Bollène

-Tham gia chương trình văn nghệ Tết Marseille và Thụy Sĩ.

Đóng góp nhân đạo với đồng bào trong  nước :

-         Giúp đồng bào bị bão lụt : 20 000F  năm 1985; 23350F năm 1986.

-         Chống sâu rầy : 7010F năm 1987

Năm 1992, anh Lâm Thành Mỹ đi lên Lille, miền bắc nước Pháp nhận chức giáo sư đại học ở trường ENSAIT (Ecole Nationale Supérieure des Arts et Industries Textiles-Roubaix). Chi hội vẫn có những người tài tiếp tục công việc : Chủ tịch Chi hội là bác sĩ Vũ Văn Huân, đã gắn bó lâu năm với Chi hội, giao thiệp tốt với chính quyền trong vùng, đã trổ tài tổ chức các sự kiện văn hóa trong Năm Hữu nghị  Việt Pháp 2015. Lại có Tổng Thư ký Chi hội là Cao Thiện Phước, kỹ sư tin học INSA, đã làm việc trong Chi hội nhiều năm rồi, tập hợp giới trẻ đông đảo. Năm đó, số hội viên là 280. Khi Phước phải rời Lyon vì việc làm thì có Nguyễn Quang Hùng Anh đảm nhận chức vụ Tổng Thư ký, chuyên trách thông tin. Chưa bao giờ Chi hội có được những tờ Thông Tin đẹp như thế, in màu, lại bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp! Hùng Anh quen biết nhiều giới truyền thông trong nước nên tin tức về Chi hội được phổ biến trong nước. Hùng Anh lại quan hệ rất tốt với sinh viên Việt Nam ở Lyon nên việc giúp đỡ qua lại giữa Hội Sinh viên VN và Chi hội là thường xuyên. Hội quán Chi hội cũng là trụ sở hành chính, là nơi hội họp, tập dượt của Hội Sinh viên. Nhưng Hùng Anh cũng bị áp lực công việc của sở làm nên không luôn luôn giữ được nhịp độ cho Hội. May thay, giúp Chủ tịch, có Phó Chủ tịch Vũ Xuân Hồng, nguyên Chủ tịch Hội Sinh viên ; có thủ quỹ cần mẫn và trung thành Trần Công Khanh, lại có hai kiện tướng về công nghệ thông tin, Phạm Kim Seng (lại một kỹ sư INSA) và Thái Quỳnh Phong, trách nhiệm trang thông tin mạng (website) của Chi hội, anh Phong lại còn là trách nhiệm văn nghệ. Ngoài ra giới nữ luân phiên nhau trong Ban Ẩm thực; cô Phương Anh đảm đang lo quỹ Nem Học bổng cùng cả một ê-kíp trong đó có nhiều sinh viên.

Chi hội có hai đối tác chiến lược: Hội Sinh viên Việt Nam tại Lyon và Hội Pháp Việt có tên ‘Câu lạc bộ Rhône-Mékong’ (Club Rhône-Mékong). Hội Sinh viên có sức sống trẻ, có vốn văn nghệ phong phú. Mỗi năm, Chi Hội phối hợp với Hội Sinh Viên tham gia Lễ Cờ Hiệu của Thành Phố. Lễ này có sự tham gia của kiều bào nhiều nước, mang cờ và mặc y phục của nước mình đi diều hành trong trung tâm Thành phố Lyon rồi tham gia trình diễn văn nghệ. Hội Câu lạc bộ Rhône-Mékong (viết tắt RM) được thành lập năm 1994. Mục tiêu đầu tiên là tập hợp các người Pháp có cảm tình với Việt Nam, giúp họ có một nơi sinh hoạt để  hỗ trợ Việt Nam. Một số người Việt Nam cũng có mặt, tuy không nhiều nhưng sự có mặt của những người Việt này rất quan trọng. Chủ tịch đầu tiên là chị Diệp Thị Xuân, đảm nhiệm chức vụ 11 năm. Tiếp theo là anh Jean Pierre Nguyễn Bá Nghị, làm Chủ tịch cho đến bây giờ. Mục tiêu chính hiện nay của RM là làm ra tiền cho các sinh hoạt nhân đạo, xã hội ở VN bằng cách tổ chức các bữa ăn ở Hội quán và ngoài Hội quán (nhưng được chuẩn bị từ Hội quán).  Hội RM đã làm được rất nhiều việc, xây nhiều lớp học, tặng học bổng, giúp khám bệnh, phát thuốc ở những xã xa xôi…, mỗi năm ngân sách giúp Việt Nam là trên 20 000 euros. Hội cũng tổ chức gala văn nghệ, các lớp dạy tiếng Việt và tiếng Anh. Hội RM sử dụng Hội quán thường xuyên, chia chi phí ở Hội quán với Chi hội, chú trọng việc dọn  dẹp, bảo trì Hội quán.

Nguyên Tổng Thư Ký RM, ông Philippe Dumont là người rất sành và yêu văn hóa Việt Nam. Ông đã sáng lập và là Tổng Biên Tập của tờ báo Passion Viet Nam rồi Carnets du Viet Nam (với Dominique Foulon là Giám Đốc), tờ này ra được 28 số, từ 04/2003 đến 01/2011, báo chấm dứt với sự qua đời của ông.

Ở Lyon, còn có Hội Aide au Développement Médical du Viet Nam (gọi tắt là ADM Rhône-Alpes) đã tích cực giúp nền y tế Việt Nam trong 25 năm qua. Trách nhiệm hiện tại là bác sĩ Lê Ngọc Nga, người rất năng động, đã đem nhiều thiết bị, như nhiều máy lọc thận kèm theo máy lọc nước, được chứng nhận mới 80%, đào tạo nhân viên sử dụng, để phục vụ cho nhiều bệnh viện ở Việt Nam.

Trong 40 năm qua, biết bao nhiêu sinh hoạt đáng thương đáng nhớ đã diễn ra nơi Hội quán ! Sau đây là một số hình ảnh :

 Cdhvdn1

Quốc Khánh 2005 được làm trong 2 ngày : ngày đầu nghe và trao đổi với Đại Sứ Nguyễn Đình Bin, ngày sau để trình diễn văn nghệ.

 Cdhvdn2  Sinh hoạt văn nghệ 03/2008

 Cdhvdn3 Tết 2012, Ban hợp xướng Lyon đã trình bày trường ca “Những dòng sông anh em’ và ‘Con đường trước mặt’ của Phạm Thế Mỹ, những bài ít được người biết. Bạn đọc có thể nghe qua địa chỉ  https://www.youtube.com/watch?v=pfHcX64LO0U

Cdhvdn4  Ngày Nguyễn Du 11/2015 nhân kỷ niệm lần thứ 250 năm sinh của Đại thi hào (các tham luận, ngâm thơ…  được đăng trên site ugvr.org)

Hội quán đã giữ một vai trò chủ yếu để cho Chi hội thực hiện các mục tiêu chính: hướng về đất nước, phát triển đời sống cộng đồng và đặc biệt về mặt văn hóa và xây dựng bền vững tình thân ái với bạn bè Pháp.

 

Cdhvdn5  Bữa ăn thân mật có ca nhạc 2015

 Nhờ hoạt động Nem Học bổng , Chi hội giúp học bổng cho học sinh nghèo ở Việt Nam từ gần 20 năm qua, hiện giờ giúp hằng năm 110 học bổng cho học sinh  (700 000 đ một xuất) và hai học bổng cho sinh viên (1500000 đ một xuất) và đẩy được công tác giúp học sinh đọc sách, mỗi năm ở 11 trường tiểu học được giúp, có khoảng hai trăm ngàn lượt học sinh mượn sách mang về nhà đọc (xem bài và báo cáo của hai thư viện trên site ugvr.org)

.

Cdhvdn6 

Phát học bổng ở Cái Răng (thuộc T.P. Cần Thơ) ngày 20-08-2018

 Cdhvdn7

Phát học bổng ở Ngả Sáu, Huyện Châu Thành Tỉnh Hậu Giang 20-08-2018

Nhưng đúng là Chi hội cần phát triển những sinh hoạt mới hướng về con em của những gia đình trẻ Việt Nam hay Pháp Việt, như lễ Trung Thu, lớp học tiếng Việt…

Cdhvdn8  Trung Thu 2016

 Cdhvdn9.jpg 

 Lễ Trung Thu 2018 ở Hội Quán đã tụ hợp 20 trẻ em và 30 cha mẹ.

Sau đó, lớp sinh hoạt và dạy tiếng Việt  cho thiếu nhi đã được mở ra ở Hội quán, mỗi tháng một lần.

Tóm lại, trong mấy mươi năm qua, Chi Hội đã đảm nhận được vai trò của mình đối với đất nước, cộng đồng và bè bạn Pháp. Nhưng tình hình hiện nay không phải là tình hình lúc trước ; muốn tồn tại và phát triển, Chi Hội phải đổi mới thường xuyên. Chúng ta tin tưởng rằng : có lòng gắn bó với quê hương Việt Nam yêu dấu, với đồng bào ruột thịt, với văn hóa Việt Nam, có ý muốn tích cực cầu tiến, Chi hội sẽ cùng các thành phần ưu tú của cộng đồng tổ chức được mạnh mẽ, rộng rãi các sinh hoạt thích hợp với thời đại để tiếp tục tiến lên.

                                                                           Tháng 11 năm 2018.

Cám ơn : Người viết bài cám ơn bà Jeanne Marie Scheou đã kể về nhóm trí thức sinh viên hiện diện ở Lyon trong những năm 1935-1945 và ông Joel Pham, trách nhiệm site web Travailleurs indochinois.org    đã cung cấp tin tức về các các đoàn công binh đã đóng trong vùng Lyon và chung quanh.

Tài liệu tham khảo :

1-Lâm Bá Châu, Gần một thế kỷ gắn bó với dân tộc, trong ‘ Kiều bào và Quê hương’, trang 299-322, Nhà xuất bản Trẻ,TP Hồ Chí Minh 2006

2-Site web : Travailleurs indochinois.org

3-Thiều Văn Mưu, Un enfant loin de son pays, Tác giả tự xuất bản, Vénissieux 2003

Mời đọc : Site web : http://www.ugvr.org  để thêm tin tức, hình ảnh về Chi Hội.